Bệnh Lyme là một bệnh lây truyền qua đường lây truyền do the spirochete Borrelia burgdorferi. Triệu chứng ban đầu bao gồm ban đỏ da đỏ, có thể xảy ra sau vài tuần lễ sau đó do các bất thường về thần kinh, tim hay khớp. Chẩn đoán chủ yếu là lâm sàng ở giai đoạn sớm, nhưng xét nghiệm huyết thanh học có thể giúp chẩn đoán các biến chứng về tim, thần kinh, và thấp khớp xuất hiện sau đó. Điều trị bằng kháng sinh như doxycycline hoặc ceftriaxone.
Nội dung
Tổng quan bệnh Lyme
Bệnh Lyme là gì?
Bệnh Lyme là một căn bệnh do vi khuẩn gây ra lây truyền bởi các con bọ chét nhiễm bệnh sống trên cơ thể hươu nai truyền sang người và động vật. Bệnh này là bệnh lây truyền qua bọ chét được báo cáo thường xuyên nhất tại Hoa Kỳ.
Bệnh lyme có nguy hiểm không?
Bệnh lyme thường hiếm gặp, có khả năng mắc bệnh nếu sống hoặc dành thời gian ở những vùng cỏ, nhiều cây cối nơi bọ chét mang bệnh lyme phát triển mạnh. Căn bệnh lạ lyme hiếm gặp nếu khó chẩn đoán để lại hậu quả nghiêm trọng, nếu không được điều trị có thể gây ra các biến chứng như:
- Viêm khớp mãn tính (viêm khớp Lyme), đặc biệt là khớp gối
- Các triệu chứng thần kinh, chẳng hạn như liệt mặt và bệnh thần kinh
- Khiếm khuyết nhận thức, chẳng hạn như bộ nhớ bị suy giảm
- Nhịp tim không đều
Vì vậy điều quan trọng là phải thực hiện các biện pháp phòng ngừa thông thường trong các khu vực bị nhiễm ve. Nếu mắc bệnh cần được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.
Nguyên nhân bệnh Lyme
Bệnh Lyme được gây ra bởi bốn loài vi khuẩn chính. Borrelia burgdorferi và Borrelia mayonii gây bệnh Lyme ở Hoa Kỳ, trong khi Borrelia afzelii và Borrelia garinii là những nguyên nhân hàng đầu ở Châu Âu và Châu Á. Bệnh do con bọ chét gây ra phổ biến nhất ở những vùng này, bệnh Lyme lây truyền qua vết cắn của con bọ chét bị nhiễm bệnh, thường có ở trên con hươu nai
Để mắc bệnh Lyme, một con bọ chét bị nhiễm bệnh phải cắn bạn. Vi khuẩn xâm nhập vào da thông qua vết cắn và cuối cùng xâm nhập vào máu .Trong hầu hết các trường hợp, để truyền bệnh Lyme, một con bọ chét phải được gắn trong 36 đến 48 giờ. Loại bỏ con bọ chét trên da càng sớm càng tốt ngăn ngừa mắc bệnh.
Triệu chứng bệnh Lyme
Các dấu hiệu bệnh Lyme khác nhau. Chúng thường xuất hiện trong các giai đoạn, nhưng các giai đoạn có thể chồng chéo lên nhau.
Dấu hiệu và triệu chứng sớm
Một vết sưng nhỏ, màu đỏ, tương tự như vết sưng của vết muỗi đốt, thường xuất hiện ở vị trí vết cắn hoặc loại bỏ bọ ve và giải quyết trong vài ngày. Điều này xảy ra bình thường không chỉ ra bệnh Lyme.
Tuy nhiên, những dấu hiệu và triệu chứng này có thể xảy ra trong vòng một tháng sau khi bạn bị nhiễm bệnh:
- Phát ban. Từ ba đến 30 ngày sau khi bị ve cắn bị nhiễm bệnh, một vùng màu đỏ mở rộng có thể xuất hiện đôi khi xóa ở trung tâm, tạo thành mô hình mắt bò. Phát ban (ban đỏ di chuyển) mở rộng chậm qua nhiều ngày và có thể lan rộng đến 12 inch (30 cm). Nó thường không ngứa hoặc đau nhưng có thể cảm thấy ấm khi chạm vào. Phát ban là một trong những đặc điểm nổi bật của bệnh Lyme, mặc dù không phải ai mắc bệnh Lyme cũng bị phát ban. Một số người phát triển phát ban này tại nhiều nơi trên cơ thể.
- Các triệu chứng khác. Sốt, ớn lạnh, mệt mỏi, đau nhức cơ thể, nhức đầu, cứng cổ và sưng hạch có thể đi kèm với phát ban.
Dấu hiệu và triệu chứng muộn hơn
Nếu không được điều trị, các dấu hiệu và triệu chứng mới của nhiễm trùng Lyme có thể xuất hiện trong vài tuần tới vài tháng. Bao gồm các:
- Phát ban có thể xuất hiện trên các khu vực khác của cơ thể bạn.
- Đau khớp. Những cơn đau khớp và sưng nghiêm trọng đặc biệt ảnh hưởng đến đầu gối của bạn, nhưng cơn đau có thể chuyển từ khớp này sang khớp khác.
- Vấn đề về thần kinh. Vài tuần, vài tháng hoặc thậm chí nhiều năm sau khi bị nhiễm trùng, bạn có thể bị viêm màng bao quanh não (viêm màng não), tê liệt tạm thời một bên mặt (tê liệt), tê hoặc yếu chân tay và cử động cơ bắp bị suy yếu.
Các dấu hiệu và triệu chứng ít phổ biến hơn
Vài tuần sau khi bị nhiễm bệnh, một số người phát triển:
- Các vấn đề về tim, chẳng hạn như nhịp tim không đều
- Viêm mắt
- Viêm gan (viêm gan)
- Mệt mỏi nặng
Khi nào đi khám bác sĩ?
Nếu bạn nghĩ rằng bạn đã bị cắn và có các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh Lyme – đặc biệt nếu bạn sống ở khu vực phổ biến bệnh Lyme – hãy liên hệ với bác sĩ của bạn. Điều trị bệnh Lyme hiệu quả hơn nếu được bắt đầu sớm.
Đường lây truyền bệnh Lyme
Bọ chét trên hươu nai bám chặt vào những loại cây gần mặt đất ở những nơi đầy bụi rậm, cây rừng, hoặc nhiều cỏ. Những con bọ chét này khá nhỏ và leo lên cơ thể động vật và những người chạm phải những cây đó. Những con bọ chét rất nhỏ, gọi là ấu trùng, chỉ bé như dấu chấm cuối câu, nhiễm vi khuẩn gây bệnh Lyme khi chích vào những con vật bị nhiễm bệnh.
Những con bọ chét lớn hơn một chút, gọi là con nhộng, có kích thước bằng hạt cây anh túc, là loại có nhiều khả năng chích con người nhất. Những con bọ chét trưởng thành sống trên cơ thể hươu nai cũng có thể truyền bệnh, nhưng chúng không có nguy cơ cao bằng những con nhộng vì những con trưởng thành ít có khả năng chích người hơn vì chúng dễ nhìn và dễ bị gỡ ra. Những con bọ chét trên hươu nai có kích cỡ nhỏ nên dễ gây bệnh. Bọ chét thường phải bám dính trong ít nhất 48 giờ mới có thể truyền vi khuẩn, nên việc gỡ bọ chét ngay sau khi bị chích sẽ giảm nhiều khả năng mắc bệnh.
Đối tượng nguy cơ bệnh Lyme
Các yếu tố nguy cơ có liên quan đến nơi sinh sống, nghề nghiệp, cụ thể
- Sinh sống hay làm việc, vui chơi trong khu vực rừng rậm hoặc nhiều cỏ. Trẻ em dành nhiều thời gian ngoài trời ở những khu vực này đặc biệt có nguy cơ. Người lớn có nghề nghiệp ngoài trời cũng có nguy cơ cao hơn.
- Để lộ vùng da để bọ chét có thể tiếp xúc dễ dàng. Nếu đang ở trong khu vực phổ biến bọ ve, hãy bảo vệ bản thân và con bạn bằng cách mặc áo dài tay và quần dài.
- Không loại bỏ bọ ve kịp thời hoặc đúng cách. Vi khuẩn từ vết cắn của ve có thể xâm nhập vào máu của bạn nếu bọ ve bám vào da bạn trong 36 đến 48 giờ hoặc lâu hơn. Nếu bạn loại bỏ sớm trong vòng 2 ngày nguy cơ mắc bệnh Lyme sẽ thấp hơn.
Phòng ngừa bệnh Lyme
Cách tốt nhất để phòng bệnh Lyme là tránh những khu vực có bọ ve sống, đặc biệt là những khu vực nhiều cây cối, rậm rạp với cỏ dài. Các biện pháp có thể giảm nguy cơ mắc bệnh Lyme bao gồm
- Che đậy. Khi ở những khu vực nhiều cây cối hoặc cỏ, hãy mang giày, quần dài nhét vào tất, áo sơ mi dài tay, mũ và găng tay. Cố gắng bám vào những con đường mòn và tránh đi bộ qua những bụi cây thấp và cỏ dài.
- Sử dụng thuốc chống côn trùng. Áp dụng thuốc chống côn trùng với nồng độ DEET 20% hoặc cao hơn cho làn da của bạn. Cha mẹ nên áp dụng thuốc chống côn trùng cho trẻ, tránh tay, mắt và miệng.
Hãy nhớ rằng thuốc chống hóa chất có thể độc hại, vì vậy hãy làm theo hướng dẫn cẩn thận. Áp dụng các sản phẩm với permethrin cho quần áo hoặc mua quần áo tiền xử lý. - Dọn dẹp, cắt cỏ thường xuyên, sắp xếp đồ đạc gọn gàng trong khu vực khô, nắng để ngăn chặn loài gặm nhấm mang bọ chét.
- Kiểm tra quần áo, bản thân, con cái và thú cưng để tìm bọ ve. Hãy đặc biệt thận trọng sau khi dành thời gian trong khu vực rừng hoặc cỏ. Bọ ve thường không lớn hơn đầu ghim, vì vậy bạn có thể không phát hiện ra chúng trừ khi bạn tìm kiếm cẩn thận.
Thật hữu ích khi tắm ngay khi bạn vào trong nhà. Bọ ve thường lưu lại trên da bạn hàng giờ trước khi tự gắn. Tắm và sử dụng khăn lau có thể loại bỏ bọ ve không được chăm sóc. - Loại bỏ bọ chét trên da càng sớm càng tốt với nhíp. Nhẹ nhàng nắm lấy con ve gần đầu hoặc miệng của nó. Đừng bóp hoặc nghiền nát ve, nhưng kéo cẩn thận và đều đặn. Khi bạn đã loại bỏ toàn bộ bọ ve, hãy vứt bỏ nó bằng cách cho nó vào cồn hoặc xả nó xuống nhà vệ sinh, và bôi thuốc sát trùng lên vùng bị cắn.
Các biện pháp chẩn đoán bệnh Lyme
Nhiều dấu hiệu và triệu chứng của bệnh Lyme thường được tìm thấy trong các điều kiện khác, vì vậy chẩn đoán có thể khó khăn.
Chẩn đoán dựa vào:
- Hỏi tiền sử sinh sống, vui chơi ở những nơi nhiều cây cối, nghề nghiệp thường xuyên ở ngoài trời,…
- Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm để xác định kháng thể với vi khuẩn có thể giúp xác nhận hoặc loại trừ chẩn đoán. Những xét nghiệm này đáng tin cậy nhất một vài tuần sau khi bị nhiễm trùng, bao gồm
- Xét nghiệm miễn dịch liên kết với enzyme (ELISA). Xét nghiệm được sử dụng thường xuyên nhất để phát hiện bệnh Lyme, ELISA phát hiện kháng thể đối với B. burgdorferi. Nhưng bởi vì đôi khi nó có thể cung cấp kết quả dương tính giả, nó không được sử dụng làm cơ sở duy nhất để chẩn đoán.
Xét nghiệm này có thể không dương tính trong giai đoạn đầu của bệnh Lyme, nhưng phát ban đủ đặc biệt để chẩn đoán mà không cần xét nghiệm thêm ở những người sống trong khu vực bị nhiễm ve truyền bệnh Lyme. - Phương pháp hai bước. Nếu xét nghiệm ELISA dương tính, xét nghiệm này thường được thực hiện để xác nhận chẩn đoán. Trong phương pháp hai bước này, Western blot phát hiện kháng thể đối với một số protein của B. burgdorferi.
Các biện pháp điều trị bệnh Lyme
Điều trị chủ yếu là thuốc kháng sinh. Nếu trị càng sớm thì khả năng phục hồi càng nhanh, tránh các biến chứng sau này.
Sử dụng kháng sinh như sau:
- Kháng sinh đường uống. Đây là những điều trị tiêu chuẩn cho bệnh Lyme giai đoạn đầu. Chúng thường bao gồm doxycycline cho người lớn và trẻ em trên 8 tuổi, hoặc amoxicillin hoặc cefuroxime cho người lớn, trẻ nhỏ và phụ nữ mang thai hoặc cho con bú. Một đợt kháng sinh kéo dài 14 đến 21 ngày thường được khuyến nghị, nhưng một số nghiên cứu cho thấy các khóa học kéo dài 10 đến 14 ngày có hiệu quả tương đương.
- Kháng sinh tiêm tĩnh mạch. Nếu bệnh liên quan đến hệ thần kinh trung ương, bác sĩ có thể chỉ định điều trị bằng kháng sinh tiêm tĩnh mạch trong 14 đến 28 ngày. Điều này có hiệu quả trong việc loại bỏ nhiễm trùng, mặc dù nó có thể khiến bạn mất một thời gian để phục hồi sau các triệu chứng của bạn. Kháng sinh tiêm tĩnh mạch có thể gây ra các tác dụng phụ khác nhau, bao gồm số lượng bạch cầu thấp hơn, tiêu chảy từ nhẹ đến nặng, hoặc nhiễm khuẩn hoặc nhiễm trùng với các sinh vật kháng kháng sinh khác không liên quan đến Lyme.
- Sau khi điều trị kháng sinh, một số ít người vẫn có một số triệu chứng, chẳng hạn như đau cơ và mệt mỏi. Nguyên nhân của những triệu chứng tiếp tục này, được gọi là hội chứng bệnh sau Lyme, vẫn chưa được biết, và điều trị bằng nhiều loại kháng sinh không giúp ích gì.
Điều trị kháng sinh là phương pháp điều trị duy nhất đem lại hiệu quả nếu dùng sớm, dùng đúng liều, đủ thời gian. Hiện nay đã có một số biện pháp điều trị thay thế khác tuy nhiên chưa được chứng minh an toàn, hiệu quả.